Quai bị là bệnh lý không hiếm gặp, tuy là bệnh lành tính nhưng hiện nay vẫn chưa có thuốc đặc trị. Theo chuyên gia y tế, bệnh quai bị nếu không phát hiện và điều trị kịp thời, đúng cách có thể dẫn đến nhiều biến chứng. Viêm tinh hoàn ở nam giới và viêm buồng trứng ở nữ giới là 2 biến chứng nguy hiểm có thể dẫn đến vô sinh.
Bệnh quai bị (bệnh viêm tuyến mang tai dịch tễ hay viêm tuyến mang tai do virus quai bị) là bệnh truyền nhiễm cấp tính, do virus Paramyxovirus gây ra và dễ lây lan thành dịch, đặc biệt ở đối tượng trẻ em, thanh thiếu niên. Dấu hiệu rõ ràng nhất của quai bị là tình trạng sưng phồng 2 má và đau tuyến mang tai (nằm dưới 2 hàm, phía trước tai).
Bệnh quai bị lây lan chủ yếu qua đường hô hấp do nước bọt bị nhiễm trùng khi:
Ho hoặc hắt hơi;
Sử dụng chung dao kéo và đĩa với một người bị nhiễm bệnh;
Chia sẻ đồ ăn thức uống với người bị bệnh;
Hôn nhau;
Người bị nhiễm bệnh chạm vào mũi hoặc miệng của họ và sau đó truyền nó lên một bề mặt mà người khác có thể chạm vào như ống chung ly nước,…
Bệnh bắt đầu lây cho người tiếp xúc khoảng một tuần trước khi bệnh nhân xuất hiện triệu chứng sưng tuyến mang tai và có thể tiếp tục lây nhiễm khoảng 2 tuần sau đó, thời gian lây mạnh nhất khoảng 2 ngày trước khi viêm tuyến mang tai.
Bệnh quai bị có nguy cơ thành dịch, do tính chất rất dễ lây nhất là ở những nơi tập trung đông người sinh hoạt tập thể: Trường học, ký túc xá, doanh trại. Chỉ cần một người mắc quai bị mà không được cách ly thì bệnh sẽ bùng phát rất nhanh. Bệnh chủ yếu lây truyền trực tiếp qua những giọt nước bọt nhỏ bắn ra khi nói chuyện, ho,…
Mặc dù, quai bị là bệnh truyền nhiễm rất dễ lây lan nhưng khó phát hiện với những dấu hiệu giai đoạn khởi phát giống cảm cúm thông thường.
Giai đoạn ủ bệnh:
Thường kéo dài 17 – 18 ngày, người bệnh gần như không biểu hiện triệu chứng nên có thể lây lan mầm bệnh khi tiếp xúc người khác mà không có biện pháp phòng ngừa.
Giai đoạn khởi phát của bệnh:
Giai đoạn toàn phát:
Sau khi khởi phát 24 – 48 giờ, xuất hiện dấu hiệu viêm tuyến nước bọt (tuyến mang tai), là một triệu chứng thường gặp ở trẻ bị quai bị. Lúc đầu, trẻ sẽ có dấu hiệu sưng 1 bên mang tai, sau 1 – 2 ngày sẽ sưng lên bên còn lại. Hai bên má bị sưng viêm không đối xứng, vùng da bị sưng căng bóng, sờ nóng, không đỏ, đau. Trẻ đau hàm khi há miệng, nhai hoặc ăn những thức ăn có vị chua.
Giai đoạn lui bệnh:
Nếu được chăm sóc tốt và điều trị kịp thời sẽ hoàn toàn khỏi bệnh trong vòng 10 ngày. Tuyến nước bọt không bị sưng và không hóa mủ (trừ trường hợp nhiễm khuẩn và bội nhiễm).
Bệnh quai bị ở người lớn tuy ít gặp, nhưng biến chứng nguy hiểm hơn so với trẻ em. Tuy nhiên, bệnh quai bị ở trẻ em có thể ảnh hưởng lâu dài đến tuổi trưởng thành.
Tỷ lệ tử vong do quai bị rất thấp, tử vong thường xảy ra ở các trường hợp nặng, có viêm não – màng não hoặc viêm nhiều tuyến, nhưng thường nặng và có nhiều biến chứng hơn ở trẻ em. Biến chứng thường thấy của bệnh quai bị:
Điếc tai: Biến chứng điếc tai do quai bị rất hiếm gặp, xảy ra ở giai đoạn khởi phát do virus quai bị gây tổn thương ốc tai. Điếc tai rất khó hồi phục, thường là điếc một bên tai, hiếm khi gặp cả hai tai.
Viêm não: Virus quai bị tấn công hệ thần kinh trung ương dẫn đến nguy cơ viêm não, viêm màng não hoặc dị tật tiểu não (gây ra các vấn đề phối hợp vận động).
Viêm tinh hoàn ở bé trai: Tỷ lệ thường gặp, 10 bé trai mắc quai bị có 4 bé bị biến chứng viêm tinh hoàn. Đây là biến chứng cần được phát hiện và điều trị đúng, kịp thời để tránh di chứng vô sinh.
Viêm buồng trứng ở bé gái: Biến chứng viêm buồng trứng sẽ có biểu hiện đau bụng nhiều, cần đưa bé đến bệnh viện để được siêu âm, chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời.
Viêm màng não do virus: Biến chứng hiếm gặp, xảy ra khi virus xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương của cơ thể (não và tủy sống). Đây là biểu hiện nặng của quai bị, bệnh nhân đau bụng nhiều, ói, có khi tụt huyết áp,…
Nguy cơ sẩy thai cao khi phụ nữ mang thai bị quai bị trong 12 – 16 tuần đầu của thai kỳ hoặc sinh con dị dạng, trong 3 tháng cuối của thai kỳ có thể sinh non hoặc thai chết lưu.
Ngoài ra, quai bị còn có thể gây ra các biến chứng khác hiếm gặp:
Viêm cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, viêm thần kinh thị giác (gây giảm thị lực tạm thời), viêm thanh khí phế quản, viêm phổi, rối loạn chức năng gan, xuất huyết do giảm tiểu cầu.
Nhồi máu phổi: Vùng phổi bị thiếu máu nuôi dưỡng, có thể tiến đến hoại tử mô phổi.
Viêm tụy: Biểu hiện nặng của quai bị, bệnh nhân đau bụng nhiều, buồn nôn, có khi tụt huyết áp.
Nhận thấy sự xuất hiện của bất kỳ dấu hiệu, triệu chứng nào thì tốt nhất nên đến ngay bệnh viện để được thăm khám, xét nghiệm và được các bác sĩ chuyên khoa hướng dẫn điều trị.
Tuyệt đối không được thờ ơ trước các bất thường của cơ thể, vì có thể khiến bệnh tiến triển đến mức trầm trọng, việc chữa trị vô cùng khó khăn và gặp không ít rủi ro, biến chứng.
Quai bị là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus quai bị (Mumps virus), thuộc họ Paramyxoviridae gây ra. Bệnh xảy ra quanh năm nhưng tỷ lệ mắc bệnh cao và dễ thành dịch là vào mùa đông – xuân.
Virus lây truyền từ người bệnh qua người lành qua đường hô hấp. Khi người bệnh nói chuyện, ho, hắt hơi, khạc nhổ, virus trong các hạt nước bọt hoặc dịch mũi họng,... phát tán ra ngoài không khí hoặc bám vào các bề mặt, người lành hít trực tiếp hoặc chạm vào các đồ dùng bị nhiễm virus sẽ có nguy cơ mắc bệnh.
Người chưa có miễn dịch đều có thể nhiễm virus quai bị và mắc bệnh quai bị. Nhóm có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là trẻ em từ 6 tháng tuổi, sau khi hết miễn dịch của người mẹ.
Do bệnh quai bị lây truyền theo đường hô hấp nên dịch bệnh thường xảy ra nơi tập trung đông người: Trường học, ký túc xá, doanh trại, khu tập thể,… Tỷ lệ mắc ở nam giới thường cao hơn nữ giới.
Có rất nhiều yếu tố có thể tăng nguy cơ mắc bệnh này, như:
Quai bị rất dễ lây lan, sự lây truyền xảy ra khi tiếp xúc giữa người với người cũng như lây lan trong không khí. Quai bị có thể lây truyền trong không gian nhỏ, ngay cả khi không tiếp xúc giữa người với người;
Người có nguy cơ mắc bệnh quai bị: Chưa tiêm vaccine phòng ngừa quai bị hoặc những người chưa từng mắc bệnh quai bị;
Du lịch đến khu vực lưu hành quai bị hoặc tiếp xúc những người bị quai bị đến từ các khu vực này sẽ làm tăng nguy cơ phơi nhiễm quai bị.
Chẩn đoán phải dựa vào triệu chứng lâm sàng của quai bị và xét nghiệm cần thiết:
Triệu chứng lâm sàng: Sốt, đau đầu, đau góc hàm và đau họng, tuyến mang tai đau nhức và to dần,…
Xét nghiệm:
Xét nghiệm Mumps IgM: Phát hiện kháng thể IgM đáp ứng miễn dịch đặc hiệu với virus quai bị. Ngay khi cơ thể người bệnh có sự tiếp xúc đầu tiên với virus, kháng thể IgM sẽ xuất hiện trong máu. Kháng thể IgM tăng tối đa sau vài ngày nhiễm virus, giảm dần và kéo dài trong vài tuần sau đó.
Xét nghiệm Mumps IgG: Kháng thể IgG tồn tại trong máu suốt đời kể cả khi bệnh được điều trị khỏi. Kháng thể IgG giúp chống lại virus quai bị xâm nhập vào những lần sau.
Xét nghiệm xác định virus quai bị: Được chỉ định khi nghi ngờ người bệnh có những triệu chứng nhiễm virus quai bị. Xét nghiệm phát hiện virus quai bị có thể được tiến hành bằng phương pháp khác nhau: Nuôi cấy virus, xét nghiệm Mumps PCR,... Tuy nhiên, phương pháp chỉ giúp chẩn đoán tình trạng bệnh, không xác định được khả năng miễn dịch của cơ thể.
Việc điều trị quai mang tính chất hỗ trợ, không có liệu pháp kháng virus quai bị cụ thể được chấp thuận để điều trị bệnh quai bị.
Nguyên tắc điều trị: Cách ly bệnh nhân quai bị.
Biện pháp điều trị:
Hiện nay, chưa có thuốc đặc trị bệnh quai bị mà chủ yếu là điều trị triệu chứng, chăm sóc người bệnh và phòng ngừa các biến chứng của bệnh, nằm nghỉ tuyệt đối khi có sưng tinh hoàn. Trong hầu hết các trường hợp, có thể phục hồi trong vòng 2 tuần;
Điều trị chủ yếu là làm giảm các triệu chứng: Hạ sốt hay giảm đau. Nếu trẻ sốt cao, có thể cho trẻ uống nhiều nước (tránh nước ép trái cây vì chúng kích thích sản xuất nước bọt, có thể gây đau), chỉ sử dụng thuốc hạ sốt khi thực sự cần thiết và không nên dùng aspirin. Khi không có bội nhiễm thì không sử dụng kháng sinh;
Có thể giảm bớt cơn đau bằng cách chườm lạnh trên vùng bị sưng;
Bệnh nhân quai bị cần ăn uống đầy đủ dinh dưỡng kết hợp nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân sạch sẽ: Súc miệng bằng nước muối sinh lý, nước muối ấm hay nước súc miệng;
Không tự ý dùng thuốc uống, bôi đắp lên vùng bị sưng khi chưa có chỉ định của bác sĩ để tránh nhiễm độc;
Tránh để trẻ vận động, chạy nhảy nhiều khi bệnh đang diễn tiến cấp tính.
Lưu ý: Tuyệt đối không dùng các phương pháp điều trị kiểu mê tín dị đoan, truyền miệng, không đắp vôi lá cây lên vùng sưng của trẻ làm nóng, phỏng vùng sưng tạo điều kiện cho vi trùng xâm nhập và gây ra biến chứng viêm tuyến mang tai. Trẻ trong tình trạng này, nếu không được điều trị kịp thời trẻ dễ tử vong. Những cách điều trị này chẳng những không thể chữa khỏi bệnh mà còn gây hại cho trẻ.
Tuyệt đối không tự ý bỏ thuốc hoặc mua thuốc không có trong đơn thuốc của bác sĩ;
Lắng nghe và làm theo mọi hướng dẫn, chỉ định của bác sĩ;
Liên hệ ngay với bác sĩ khi có những bất thường xuất hiện trong quá trình điều trị;
Thăm khám định kỳ để được theo dõi diễn tiến của bệnh và tình trạng sức khỏe;
Vệ sinh cá nhân, môi trường sạch sẽ và thường xuyên;
Thể dục thể thao nâng cao sức khỏe;
Chế độ ăn uống cân bằng, đầy đủ chất đinh dưỡng.
Vì mức độ nguy hiểm của bệnh quai bị, phụ nữ mang thai cần: